THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG
THÔ ÑÔØI NGAÂN VOÏNG
LA THỤY
THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG
Thơ
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC - 2014
LỜI TỰA
Đã từ lâu, chúng tôi vẫn thường tự hỏi, giữa nhà thơ và nhà giáo chắc có cái “duyên” hay cái “nợ” gì trói buộc nhau. Vì hễ gặp nhà giáo, hỏi ra cũng là nhà thơ, gặp nhà thơ, hỏi ra thì cũng đã là nhà giáo! Có lẽ họ giống nhau ở chỗ là đem ngòi bút, trí tuệ của mình để hướng về một nét đẹp tâm hồn, phụng sự quần sinh. Nhà thơ, nhà giáo La Thụy không ngoài “duyên, nợ” đó.
La Thụy tên thật là Đoàn Minh Phú, hiện là giáo viên tại Thị xã Lagi - Bình Thuận, là Phó Chủ Tịch Chi hội UNESCO Thơ Đường tại địa phương.
La Thụy sáng tác nhiều thơ văn, đăng trên nhiều tạp chí, báo viết, báo mạng, là chủ hai trang blog cùng mang tên: BÂNG KHUÂNG (phudoanlagi.blogspot.com và trang thứ hai là lathuy.blogtiengviet.net). Anh đã có nhiều tác phẩm được in chung. Tập THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG lần đầu La Thụy in riêng.
THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG tuy chỉ có 45 bài thơ nhưng khá súc tích với những thể thơ Đường luật, Lục bát, Tự do hàm chứa được nhiều đề tài về học đường, tình bạn, tình quê hương, tình yêu lãng mạn, rượu và nhân sinh quan.
Với lời thơ trong sáng, chất chứa ý tình rất thật của đời thường, THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG đã “khôn khéo” chen lẫn những đề tài khác nhau, tạo hấp dẫn cho người đọc, dẫn người đọc đọc suốt từ bài đầu đến bài cuối lúc nào không hay!
Có lẽ do sự nghiệp “trồng người” trong tim La Thụy nên anh đã mở đầu trang bằng những lời đầy tâm huyết, khiến người đọc hân hoan bước vào vườn thơ của anh:
“Nhặt cỏ vườn hoa bé
Nâng niu từng nụ hồng
Nhựa xuân rung se sẽ
Mộng hồn bay lâng lâng”
(Trên bục giảng mùa xuân)
Sau đó chúng ta thấy ngay dạy học và làm thơ không chỉ là nghề, mà còn là cái “nghiệp” trong suốt cuộc đời của tác giả:
“Văn chương nợ ấy còn chưa trả
Giáo nghiệp phận này vẫn phải mang.”
(Hoài cảm)
“Còn chưa trả”, “vẫn phải mang” tưởng chừng như lời than của tác giả khi bị bắt buộc trói vào nghiệp! Nhưng thực tế đó là niềm tự hào, sự tự nguyện của tác giả:
“Nghiệp bút ta vương hoài lận đận
Tình thơ ai buộc mãi đam mê”.
(Tiếng lòng)
Nếu không thì sao sắp đến tuổi hưu, sắp được thoát “nợ”, anh lại cảm thấy tiếc nuối, vấn vương với trường lớp, bục giảng, và không quên ân cần dặn dò những đồng nghiệp lớp sau:
“Ừ thì mình cũng qua cầu
Rồi đây bục giảng thành màu
khói sương”.
Và:
“Chúc người ở lại tâm đồng
"Trồng người" góp sức thành công
bội phần”.
(Thơ tặng người nghỉ hưu)
Yên tâm tìm đến Thơ - nỗi đam mê cuốn hút cả đời - tác giả ung dung tận hưởng thú thanh nhàn:
“Cho ta ít phút thanh nhàn
Câu thơ bất chợt xuất thần thăng hoa”.
(Tàn niên cảm tác)
Và:
“Ung dung tự tại cười khinh khoái
Hào sảng ngân vang khúc tráng ca”.
(Nhàn ca)
Thơ thường đi đôi với rượu. La Thụy say, không phải say vì rượu mà vì nỗi lâng lâng, vừa sảng khoái của cảm giác tự do, vừa mang nỗi niềm u uất:
“Danh lợi: chán chê vòng tục lụy
Rượu thơ: ngây ngất thú yên hà”.
(Chào xuân)
‘Mạch sầu hiu hắt làn môi
Đẫm thơm men rượu dệt lời thơ bay
Thả hồn rong ruổi trời say
Nghênh ngang gõ nhịp hao gầy
tháng năm”.
(Rong ruổi trời say)
Tình yêu và chất lãng mạn không hề thiếu trong thơ của bất cứ thi sĩ nào; nếu không chẳng khác nào một vùng đất màu mỡ mà thiếu những loài hoa đẹp. Chất lãng mạn của La Thụy được thể hiện qua những câu thơ diễm tuyệt, cao vút...
“Xiêm áo mỏng ủ men tình thắm đượm
Tiếng hồ cầm huyền hoặc dáng
liêu trai”.
(Tranh Tố Nữ)
Sao khuya chếch bóng soi hoài vọng
Lãng đãng vàng gieo rợn nét trinh
(Liêu trai cảm tác)
Chất lãng mạn còn đột phá trong ba bài thơ toàn thanh bằng (bình thanh) với cách phóng bút điêu luyện đã khiến người đọc nhớ thơ một Bích Khê năm nào, hay cung nhạc u trầm của Đặng Thế Phong khi xưa; mà theo chúng tôi, có lẽ còn hay hơn thế nữa:
“Đêm đêm mơ ai nhìn mây trôi,
Chừ đây uyên ương không còn đôi
Rồi em sang ngang trên thuyền hoa
Giang hồ phiêu bồng ru đời ta”.
(Tình xưa)
“Tương tư sao, đàn dâng sầu
Say men nồng hay say màu thời gian
Vời chân mây, nhòa non ngàn
Bâng khuâng heo may, mơ màng
hơi thu”.
(Hồ cầm)
Sảng khoái ung dung là thế, tình tứ lãng mạn là thế, nhưng La Thụy vẫn không tránh khỏi đôi phút chạnh lòng trước bóng xế của thời gian, trước những thăng trầm, dâu bể cuộc đời:
“Tráng khí ngày nao dường úa lạnh
Hùng tâm thuở ấy chợt trôi xa”.
(Chạnh lòng)
Những giây phút bùi ngùi nhớ quê hương:
Ly hương khắc khoải thương mưa Bấc
Biệt xứ bâng khuâng nhớ gió Lào
(Vọng cố hương)
Trong giây phút đắm chìm trong nỗi suy tư về cõi thế, tác giả đã có những câu thơ thiền mang âm hưởng giáo huấn Nhà Phật như thi hào Nguyễn Du:
“Thiện tâm hạt đã nẩy mầm
Sao còn ảo hóa phù vân nỗi mình”
(Với Lương Minh Vũ)
Về một kiếp người, tình người:
“Hồn thiêng sơn dã gọi bình nguyên
Vạn năm thẳm đọng triền miên mộng dài
Vọng âm tiếng khóc sơ khai
Mênh mang tro bụi cõi người hóa thân”.
(Thụy du)
“Thôi xin đừng nói tỉnh mê
Thế nhân mắt trắng mệt mề đớn đau”
(Tàn niên cảm tác)
Mặc dù có nhiều trăn trở trong cuộc sống, nhưng La Thụy vẫn luôn giữ được cái “tâm” của mình, coi thường mọi thứ cám dỗ và đối phó với chúng với một thái độ lạc quan và cách suy nghĩ tích cực:
“Mặc cho phiền muộn trôi đi
Cái vòng danh lợi đâu ghì được ta”
(Còn gieo hạt mộng)
“Cơm áo đong đưa lòng dậy sóng,
Sách đèn dang dở miệng hoen cười”
(Sơ thu tự thán)
Và luôn tin tưởng về một ngày mai tốt đẹp hơn:
“Chờ nắng hồng lên cành trổ lộc
Giao thừa canh thức nhánh đơm hoa”
(Chiều đông trẩy lá)
“Xôn xao nhựa chuyển run cành lá,
Phơi phới tình xuân phả nhạc lòng”
(Tình xuân)
Và reo lên như trẻ thơ:
“Ờ thiên kỷ hết ta còn đó
Vật đổi sao dời xuân vẫn xuân”
Và cuối cùng, là một niềm vui bất tận khi xướng họa thơ Đường cùng bạn hữu:
Xướng họa gieo vần thêu ý bút
Tâm giao nâng chén dệt đường tơ.
(Tình thơ)
THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG chỉ vỏn vẹn 45 bài thơ, song đã hàm chứa nhiều thể loại, nhiều đề tài như đã nói ở trên. Với văn phong trong sáng, thi tứ dồi dào cùng với bút pháp khá điêu luyện, THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG là một tập thơ đáng đọc vậy.
Dù nghề viết đã theo mình ngót nửa thế kỷ, song chúng tôi rất ngại ngùng (và đã từ chối) viết Lời Tựa cho nhiều tác giả, càng không dám lạm bút phê bình thơ văn bất cứ ai, vì tự nghĩ mình chưa có khả năng làm điều đó. Song, với La Thụy, có lẽ vì đồng cảm với người cùng nghề, cùng “nghiệp”, và nhất là sau khi đọc bản thảo của anh... Do đó, lần đầu tiên chúng tôi viết lời tựa nầy và không tránh khỏi có những điều sai sót. Kính mong độc giả tiếp nhận với lòng độ lượng.
Mỹ Tho, ngày 14 tháng 11 năm 2013
Kha Tiệm Ly
Địa chỉ: 99/5 Đinh Bộ Lĩnh, Phường 2, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Tel: 0987 701 952 - 01229 880 130
Email: khatiemly@gmail.com
TRÊN BỤC GIẢNG MÙA XUÂN
Tơ xuân nhè nhẹ rải
Lộc biếc khẽ đâm chồi
Đất trời nghe phơi phới
Hoa xuân hé môi cười.
Sương thu bao lần trải
Áo trắng sắc không phai
Một đời yêu phấn bảng
Thân thương tiếng giảng bài.
Nhặt cỏ vườn hoa bé
Nâng niu từng nụ hồng
Nhựa xuân rung se sẽ
Mộng hồn bay lâng lâng.
Sắc hoa cùng thắm rộ
Ủ hương đầy bâng khuâng
Thì thầm tia nắng cựa
Nguồn thơ chợt trào dâng.
TÂN NIÊN KHAI BÚT
Nâng chén hòa vui ấm giọng ca
Ý tình thao thiết bút thêu hoa
Mai e ấp nụ ươm vàng nắng
Sen khẽ khàng hương ủ đượm trà.
Bấc lạnh nỗi niềm đông tận nhỉ!
Rượu nồng sắc vị xuân khai a!
Lâng lâng thi tứ tươm trào giọt
Cánh mộng dần bay vào thẳm xa.
CHÀO XUÂN
Buốt lạnh tàn đông rồi cũng qua
Khoan thai xuân đến ấm bao nhà
Bâng khuâng nắng mới lừng hương tết
Biêng biếc chồi xanh thắm sắc hoa
Danh lợi: chán chê vòng tục lụy!
Rượu thơ: ngây ngất thú yên hà!
Thả hồn bay bổng cùng trăng nước
Hào sảng hát vang khúc túy ca.
CUỐI NĂM ÂM LỊCH
(Cảm đề thơ Đá Ngây Ngô)
Xuân về lâng lâng nào nhờ gió chở
Đáy cốc vênh hay rượu ngấm ngã nghiêng
Thèm trái cấm lòng vướng bận nghiệp duyên
Loan phụng múa tình ai đang khép mở.
Mắt xanh trắng tri âm còn níu mộng
Bến xuân ơi lưu luyến cõi trời xưa
Sương khói phủ bâng khuâng xuân không mùa
Thầm nguyện ước cho nguồn yêu mở rộng.
Ngọn nến ấy lung linh trời ảo diệu
Hương xưa nào thoang thoảng ủ tình mơ
Để ngây ngất tình tràn thơm men rượu
Hào sảng cười đồng vọng đá ngây ngô.
CÒN GIEO HẠT MỘNG
(Tặng nhà thơ Phạm Tường Đại)
Sáo diều nâng bổng cánh thơ
Lộng trong hồn gió tỏa mơ ước gì?
Mặc cho phiền muộn trôi đi
Cái vòng danh lợi đâu ghì được ta
Bảy mươi man mác bóng tà
Còn gieo hạt mộng ươm hoa muộn mằn
Đời người thoáng chốc phù vân
Chạnh lòng nhớ áo nàng Bân xưa nào.
Dáng hồng lãng đãng chiêm bao
Lâng lâng cánh bướm ta vào chiều xuân
TÌNH XUÂN
(Tặng Phạm Tường Đại)
Bướm vàng điểm phấn má hồng nhung
Thánh thót cung đàn gọi cõi không
Xôn xao nhựa chuyển run cành lá
Phơi phới tình xuân phả nhạc lòng.
Thấm đẫm sắc trời ngây ngất biếc
Thời gian chao cánh dậy mầm thơ
Thu tàn đông tạ quay tròn đất
Mây nước hồi sinh rạo rực mùa.
Gió khẽ vương hương hồn cây cỏ
Oanh yến hòa ca ấm điệu vần
Ờ thiên kỷ hết ta còn đó
Vật đổi sao dời xuân vẫn xuân.
(07/01/2001)
MẸ
Dù thân thấm đẫm bụi đời
Và tóc con chớm điểm màu sương
Nhưng với mẹ,
Con vẫn còn thơ trẻ
Dù vóc hạc hao mòn theo từng tia nắng xế
Mẹ luôn là bóng cả,
ân cần rợp toả
Trìu mến ủ che
Dắt dìu con lìa thoát bến mê.
THÙY HIÊN
Chiều tàn sương lung linh
Vườn hồng mơ chim xanh
Thùy Hiên, em trong vườn
Bừng lòng bao là thương.
Môi hồng gieo buồn vương
Mơ hồ chờ anh hôn
Lâng lâng và chơi vơi
Yêu em không còn lời.
Hồn chiều in lên mi
Thuyền tình xuôi mây đi
Ồ nàng hay sao trời
Thiên hà hay trùng khơi?
Hồn anh dâng bâng khuâng
Đàn lòng sao ngân vang
Cung trầm rung miên man
Lời trên môi thì thầm.
Lời chiều muôn năm xưa
Òa tràn trăm sông thơ
Mênh mang tà huy bay
Thùy Hiên vàng trăng gầy.
TÌNH XƯA
Sầu thu mênh mang thương rừng phai
Tương tư bâng khuâng nhiều canh dài
Lời trăng vương gieo hờn lên môi
Đêm đêm mơ ai nhìn mây trôi.
Đêm đêm mơ ai nhìn mây trôi
Chừ đây uyên ương không còn đôi
Rồi em sang ngang trên thuyền hoa
Giang hồ phiêu bồng ru đời ta.
Giang hồ phiêu bồng ru đời ta
Lênh đênh trùng khơi đùa phong ba
Vàng trăng giăng tơ khơi tình xưa
Tình ơi! Tình ơi! Đừng đong đưa.
HỒ CẦM
Vang đêm thanh hồ cầm ngân
Trăng ngà giăng tơ cung trầm buông lơi
Lâng lâng tình đang lên khơi
Hồ, xừ, xang… lòng chơi vơi canh dài.
Mơ hồ hồn xưa liêu trai
Mồ thu hoang vu chừ ai u hoài
Vương mang chi, đàn ngân dài
Lưu dư hương… ồ trang đài về đâu!
Tương tư sao, đàn dâng sầu
Say men nồng hay say màu thời gian
Vời chân mây, nhòa non ngàn
Bâng khuâng heo may, mơ màng hơi thu.
Ai phiêu diêu trong sương mù
Người muôn năm… từ thâm u quay về.
Trần gian kia còn si mê?
Hồ cầm cao cung, thương hề niềm xưa
Rơi rưng rưng từng âm thừa
Sao trời lung linh đường tơ chìm dần.
THƠ TẶNG NGƯỜI NGHỈ HƯU
Ừ thì mình cũng qua cầu
Rồi đây bục giảng thành màu khói sương
Còn đâu bụi phấn rắc vương
Một thời sinh hoạt học đường mê say...!
Giã từ giáo nghiệp hôm nay
Giao thoa: khoảng lặng... nhẹ bay cung trầm
Tơ vương ý kén lòng tằm
Miên man kỷ niệm bâng khuâng dặm về.
Thì ừ! Chào biệt bạn bè
Chia tay trường lớp, lắng nghe tiếng lòng
Chúc người ở lại tâm đồng
“Trồng người” góp sức, thành công bội phần.
TỪ THỨC VỀ TRẦN
Cợt gió đùa mây thỏa mộng lòng
Thiên thai chừ lạnh với hư không
Ngàn năm cánh hạc bay mù biệt
Vướng nợ trần gian lấm bụi hồng.
LIÊU TRAI HUYỄN MỘNG
Dáng ngọc phiêu linh nhẹ gót hài!
Ngàn năm diễm ảo nét liêu trai
Thiên thai tống biệt vương tình mộng
Huyền hoặc đường trăng gợn cảm hoài.
TRANH TỐ NỮ
Người đứng đó vai gầy tóc liễu rủ
Môi bồng bềnh chao cánh võng nghiêng lơi
Mắt thẳm đọng sóng hồ thu nhẹ vỗ
Chớm u hoài mộng tỏa vút ngàn khơi.
Thân đọng gió lung linh ngàn phấn bướm
Dưới sương mờ diễm ảo nét mi lay
Xiêm áo mỏng ủ men tình thắm đượm
Tiếng hồ cầm huyền hoặc dáng liêu trai.
Ta níu mộng để lòng hoài phơi mở
Thoáng ơ thờ, tình vẫn mãi đong đưa
Trăng xế bóng, thời gian đành hẹn lỡ
Cung tơ trầm đồng vọng nuối âm thừa.
LIÊU TRAI CẢM TÁC
“Cô vọng ngôn chi, cô thính chi”
(Vương Ngư Dương)
Chiêu niệm hồn hoa chờ hiển linh
Hay là em hát khúc vong tình
Trăng xưa tròn khuyết trời còn thắm?
Hạc cũ tụ tan đất có xinh!
Một phút tâm đầu mơ dáng bướm
Ngàn năm ý hợp mộng hình tinh
Sao khuya chếch bóng soi hoài vọng
Lãng đãng vàng gieo rợn nét trinh.
THỤY DU
Ta,
Gã mù huơ gậy đồi hoang
Sờ soạng từng dấu chân.
Soãi bước
Thụy du nhẹ nâng gót
Giữa thẳm đen chừng đang lóe chớp
Cánh chim hồn chấp chới
Tiềm thức mịt mù sóng bủa
Vọng về trong hư ảo
Rờn rợn tiếng hú hoang sơ
Khắc khoải uất u của vượn người xưa cũ.
Hồn thiêng sơn dã gọi bình nguyên
Vạn năm thẳm đọng triền miên mộng dài
Vọng âm tiếng khóc sơ khai
Mênh mang tro bụi cõi người hóa thân.
Hồng hoang - Đương đại
Vượn với Người
Hồn liệng chung chiêng.
THƠ KHÔNG VỀ
Thi hứng chừ đây có cạn nguồn?
Con tằm nhớ lá rối tơ vương
Phải chăng kén khép chôn hoài niệm
Lãng đãng hồn hoa đọng khói s
TÀN NIÊN CẢM TÁC
I.
Tơ xuân vương vấn đất trời
Hồn xuân bảng lảng thoảng lời mê hoa
Suốt đời mộng mị là ta
Mắt xanh nhẹ chớp nhạt nhòa tri âm.
II.
Chưa say nhưng dáng dật dờ
Hồn mê trí tỉnh mệt phờ xác thân
Chào nhau nửa tiếng ân cần
Khóe môi hé nụ bộn lần nhớ thương.
III.
Thôi xin đừng nói tỉnh mê
Thế nhân mắt trắng mệt mề đớn đau
Mơ say quên lấy nỗi sầu
Rộn ràng thế sự dãi dầu lo toan.
Cho ta ít phút thanh nhàn
Câu thơ bất chợt xuất thần thăng hoa.
NHÀN CA
Thoáng chốc đầy vơi bóng nguyệt già
Thu tàn đông tận ánh xuân qua
Gõ bồn Trang Tử mơ hồ điệp
Vung gậy Xích Tùng mộng tố nga.
Chuốc chén lung linh trời ảo diệu
Gieo vần sóng sánh đất giao hòa
Ung dung tự tại cười khinh khoái
Hào sảng ngân vang khúc tráng ca.
HOÀI CẢM
Cánh nhạn tung trời vun vút bay
Hồ trường dốc cạn đẫm men cay
Văn chương nợ ấy còn chưa trả
Giáo nghiệp phận này lại phải vay.
Mộng đẹp chưa tròn mà bỗng tỉnh
Tình hồng chẳng vẹn chợt thêm say
Lá vàng bay lả ngoài song đó
Thoảng tiếng đàn ngân ai nối dây?!
RONG RUỔI TRỜI SAY
Sầu dâng phủ giấc muộn phiền
Hồn hoang nghẽn lối tìm quên trăng vàng
Sáng ra mình mãi lang thang
U uất mấy nhịp cơ hàn ai hay.
Chừ đây tay vẫn trắng tay
Phú sao tưởng mộng ăn mày vu vơ
Ngửa tay nếm chút dại khờ
Dìu nhau bạn hữu vài giờ lất lây.
Thanh bần hằn vết chua cay
Ô hay trôi mất chân mây mộng đời
Mạch sầu hiu hắt làn môi
Đẫm thơm men rượu, dệt lời thơ bay.
Thả hồn rong ruổi trời say
Nghênh ngang gõ nhịp hao gầy tháng năm
Xa xăm nhòa ánh trăng rằm
Niềm đau đan phủ bụi lầm xác thân.
Chừ cho trái đất xoay vần
Trong ta tuôn chảy vô ngần bơ vơ.
1988
* Cùng Hoàng Hữu Bản nối vần trong cơn say
CHUÔNG CHIỀU
Chuông chiều ngân vọng thiết tha
Hốt nhiên tục lụy ta bà lắng sâu
Binh boong ... khoan nhặt nhiệm mầu
Hồi chuông khúc nhạc thanh cao tâm hồn.
Bản thánh ca, tiếng chuông đồng
Con tim tĩnh lặng sạch không ưu phiền.
VỚI LƯƠNG MINH VŨ
Ừ thì xếp sách lên ngàn
Áo xanh sắc lính đổi trang mộng đời
Sài Thành ơi! Vạn Hạnh ơi!
Lìa Phương Hạ xứ, sống“thời núi non”.
Đổi dời biển sóng dâu cồn
Hồn nhiên“Sơn nữ” mộng còn nguyên xuân
Hoa tay lưu dấu mệnh phần
Họa thi đan quyện chập chờn sắc không.
Bèo mây hụt bước phiêu bồng
“Nằm nghiêng nhớ núi” sóng lòng vọng âm.
Tóc râu bạc ánh tà huân
Dõi tìm “tri kỷ” trở trăn cõi người
Vẳng nghe cây lá thở dài
Làn dư hương cũ thoáng bay khẽ khàng.
Mịt mờ bụi thế mang mang
Đăm chiêu hoài vọng đến “làng mộng mơ”
Ngẩn ngơ kiếp nhện tơ vò
“Người xa lạ” ấy bất ngờ quen thân.
Thiện tâm hạt đã dậy mầm
Sao còn ảo hóa phù vân nỗi mình
Phố phường chao gót điêu linh
“Đêm say cùng bạn” thấy mình trong ta.
Tắm trong gió cát ta bà
Trùng khơi khói sóng mãi tha hương hành.
CẢM ĐỀ SƠN NỮ
(Truyện ngắn của Lương Minh Vũ)
Ngày tháng lặng buồn tênh vòng cơm áo
Ta chồn chân mỏi gối với đời mòn
Thu mình lại ẩn thân vào ốc đảo
Chút khẽ khàng liệm kín khối tình son.
Tóc đà bạc sao lòng còn hoài vọng
Một đời ta luôn dõi mắt tìm trông
Em hồn hậu trong ta thành vang bóng
Mắt môi xưa đọng ngấn ngát hương lòng.
Rồi lãng đãng gần xa, huyền dáng mộng
Nét thơ trinh vằng vặc ánh trăng ngần
Em thoáng hiện cho thơ đời ngân vọng
Ta ngậm ngùi nhìn lại - Đã tàn xuân.
LỜI VỌNG CHÂN MÂY
(Cảm đề “Hát giữa rừng chiều” của ĐHT)
Non thiền lắng bợn sắc không
Suối nguồn lờ lững một dòng chân như
Hương Tây phương giũ phù hư
Thoát trùng bể khổ Thuyền Từ phiêu diêu.
Hòa mình cùng chốn tịch liêu
Chuông mai Suối Đó, kinh chiều Chùa Đây
Thì thầm lời vọng chân mây
Rừng chiều ai hát riêng tây vô thường.
RIÊNG NỤ HOA LÒNG
Gió thoảng nhành mai đùa lộc nõn
Hoa lòng riêng nụ nép thềm ai
Lặng lờ xuân ý dâng hồn mộng
Ấm lạnh thân tâm dậy cảm hoài.
CHIỀU ĐÔNG TRẢY LÁ
Cuối năm trảy lá cội mai già
Bấc lạnh tàn đông còn buốt da
Ngấn lệ tang con dường chửa nhạt
Ngày hưu chào bạn ngỡ đang xa.
Nhâm Thìn, tống cựu bâng khuâng nhỉ!
Quý Tỵ, nghênh tân man mác a!
Chờ nắng hồng lên cành trổ lộc
Giao thừa canh thức: nhánh đơm hoa.
(Cuối năm 2012)
BIỂN MAI HỒNG
Hòn Bà ngắm sóng trầm tư
Đồi Dương ửng nắng liễu ru ven bờ
Sương lam sực tỉnh hồn mơ
Chao mình theo gió lượn lờ cùng mây.
Cỏ xanh, mượt trải đất dày
Dã tràng xe cát lạnh gầy dấu chân
Bay cùng cánh mộng bâng khuâng
Tình thơ ý nhạc như lần tuôn ra.
Tiếng lòng xưa vẫn mặn mà
Ồ sao gờn gợn âm ba nỗi mình
Lặng lờ rùa biển đinh ninh
Nghìn năm hóa kiếp đọng tình rong rêu.
Dạt dào biển dậy niềm yêu
Lung linh khói sóng phiêu diêu mộng lòng.
VỌNG CỐ HƯƠNG
Mây trời dõi bóng dạ nao nao
Hồi ức miên man cuộn sóng trào
Quảng Trị đường xưa ươm kỷ niệm
La Gi phố mới vắng tâm giao.
Ly hương khắc khoải thương mưa Bấc
Biệt xứ bâng khuâng nhớ gió Lào
Trở gối chập chờn chao cánh mộng
Vọng về quê cũ dấu yêu trao.
NGÀY CÁ THÁNG TƯ
Anh rất yêu em
Mong rằng biển cứ xanh
Và CÁ mãi cứ tươi
Trong tháng TƯ ngày MỒNG MỘT
Để chúng ta được nói dối ngọt ngào.
Không ai phải hờn ghen giận dỗi
Dù là chồng em hay vợ anh - cũng thế
Dù thật sự
Có những phút ngoại vợ ngoại chồng
Mà hình như ai cũng có
Ngay nhà thơ Thuận Hữu
Chắc cũng đắn đo
Khi viết ra điều đó!
Anh lại nói to cùng hoàng hôn
Anh yêu em hơn nữa kia nhé!
Dù gió có chuyển lời tình tự
Hay mây mang lời giận dỗi
Dù mưa nắng thất thường
Như tính tình em
Yêu giận ghen hờn
Đổi thay từng buổi.
Anh xót lòng vì hôm nay
“Em buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận
Sao chẳng là nước biển”*
Như thơ Nguyên Sa anh thuộc.
May rằng CÁ không ươn
Vì ngày MỒNG MỘT tháng TƯ
Không đòi lỗi chuộc
Khi mọi người đua nhau nói dối.
* Thơ Nguyên Sa
TIẾNG LÒNG
Duyên nợ gì đây chẳng ước thề
Một đời đắm đuối chán mình ghê
Văn phong thô thiển bao người giễu
Thi tứ dật dờ khối bạn chê.
Nghiệp bút ta vương hoài lận đận
Tình thơ ai buộc mãi đam mê
Tiếng lòng ngân vọng qua năm tháng
Hòa quyện men say chút sướng hê!
TÌNH THƠ
Ruột tằm rút mãi đã xong chưa
Vấn vít đong đưa đến tận giờ
Xướng họa gieo vần thêu ý bút
Tâm giao nâng chén dệt đường tơ.
“Diêu bông” lá mộng kìa ai đợi *
“Cổ điển” mùa mơ nọ khách chờ*
Cánh bướm Trang Chu còn lãng đãng
Đắm hồn ươm kén ủ tình thơ.
* Lá diêu bông - tên một bài thơ của Hoàng Cầm
* Mùa cổ điển - tên một tập thơ của Quách Tấn.
KHÔNG DƯNG
Không dưng... dấn bước phiêu bồng
Tìm về biển vắng rừng tòng hoang sơ
Thì ừ bèo dạt xa bờ
Ta bà gạn lắng, chân như... tính thiền.
Đáo bĩ ngạn, tâm như nhiên
Dưng không hốt ngộ... lụy phiền... sắc không!
NGHIÊNG
Ai từng nghiêng chao
Chắt lắng hết hương mê
Chừ hoài niệm
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức.
Tình xưa hẹn ước
Chông chênh rơi mất ánh trăng thề?
NGUYỄN TRÃI
Hùng văn thiên cổ “Cáo Bình Ngô”
Trị quốc an dân vẹn cõi bờ
Diệt tộc án oan bi thảm thế!
Sao Khuê vằng vặc dậy tình thơ.
TRẦN NHÂN TÔNG
Mở mang bờ cõi - dẹp Mông Nguyên
Tiêu sái Nhân Tông giũ đế quyền
Gột sạch tục căn ngời đuốc tuệ
Thấm nhuần phật tánh rạng tâm thiền.
Trúc Lâm khai sáng dày ơn tổ
Yên Tử pháp truyền đẹp cảnh tiên
Bát nhã thuyền xuôi về bến giác
Sắc không vô ngại định tâm yên.
THẢ
Chừ đây mình thả hương nồng
Phiêu phong hoài vọng rêu rong cõi người
Mai kia thả nốt tuổi trời
Thời gian cuốn hút phận đời mong manh.
Sắc không ừ thả bồng bềnh
Mộng lòng dù đã ươm xanh... thả dần.
BÂNG KHUÂNG
Bâng khuâng trước bến giang đầu
Thoáng nghe sương phấn rắc vào tâm tư
Thôi thì chắp cánh cho thơ
Gieo thêm ý nhạc cập bờ... chân như...
HỎI?
Hỏi sông tuôn chảy âm thầm
Tri âm có gặp nghìn trăm bến bờ?
Hỏi lòng sao cứ ngẩn ngơ
Người xa xăm ấy lặng lờ... bặt tin.
Lá vàng rơi rụng bên thềm
Sao khuya lẻ bóng niềm riêng u hoài
Hỏi trăng chếch bóng non đoài
Vì sao Cuội vẫn đêm dài... tương tư.
Hỏi tình sao cứ ơ thờ
Hỏi sương nhỏ giọt... cho thơ... ướt mềm.
KHÔNG ĐỀ
Hoàng hôn bảng lảng chơi vơi
Vẳng ngân âm vọng một thời xanh rêu
Ta xin lượm chút bóng chiều
Nhen cho hoài niệm dáng kiều xa xăm
Ờ sao thi tứ biệt tăm...
CHẠNH LÒNG
Hoàng hôn bảng lảng chạnh lòng ta
Chung rượu đầy vơi đượm bóng tà
Tráng khí ngày nao dường úa lạnh
Hùng tâm thuở ấy chợt trôi xa.
Nghiêng chiều rót mãi: thơ buồn rụng
Dốc nắng hứng hoài: mộng đẹp qua
Chếnh choáng mạch sầu càng ứ đọng
Hoàng hôn bảng lảng chạnh lòng ta.
SƠ THU TỰ THÁN
Sương lam rắc muối tóc xanh rồi
Mộng đẹp hoa niên ủ mãi thôi!
Cơm áo đong đưa lòng dậy sóng
Sách đèn dang dở miệng hoen cười.
Hùng tâm thuở ấy tàn dây dẫn
Tráng khí ngày nao tắt lửa mồi
Tri kỷ dõi tìm nào mấy bóng
Chiều thu con nước có trôi xuôi
DÁNG XƯA
(Cảm đề “Dáng ai” - thơ VTT)
Em đi gót nhỏ kiêu sa
Nghiêng che vành nón, nắng pha má hồng
Se se bấc lạnh chớm đông
Chân chim nhẹ bước gió bồng tóc em.
Dáng xưa tóc mượt cài trâm
Lòng gương ý lược em thầm mơ ai?
Ờ, em kiều diễm trang đài
Để ta xanh mộng dệt hoài tương tư.
Gởi hồn theo với ngàn mây
Dáng xưa thoáng hiện vơi đầy trời mơ
Chừ đây sóng đã xa bờ
Nụ tình ươm thắm hóa thơ tặng người.
NGÔI TRƯỜNG CŨ ƠI 10A3
Gần bốn mươi năm rồi, phải chăng thế
Ơi, mái tôn vách ván sân trường xưa
Ơi bè bạn! Thẹn thò ngày mới lớn
Ghế cầm tay thắm dệt đóa hoa mơ.
Nguyễn Hoàng(*)! Thôi vời vợi ngôi trường cũ
Ngăn phên cót vẫn thích hơn tường vữa
Tiếng học ồn ta vẫn thấy véo von
Còn chăng hương má cốm đến thơm giòn.
Mắt mở lớn lũ học trò thuở ấy
Những Cường, Oanh, Bình, Phú,… lộng hồn trai
Chân chập chững vẫn vào đời mạnh bước
Ươm mơ hồng luôn dự phóng tương lai.
(Còn măng sữa nhưng tưởng rằng vượt lớn
Bàn sự đời “từng trải” đến ngây ngô
Thơ vụng dại cho rằng tài xuất chúng
Xô tượng thần đạp ngã những ngai thờ.
“Cánh sen vàng”, “cành trúc” thơ ngày cũ
Đám trai non háo hức cố thi tài
Gieo vần họa, tôn xưng làm tam tuyệt
Ơi cuồng kiêu! Thơ dại hơn loài nai).
Thương thắm thiết lớp mười xưa cũ đó
Tảng đá buồn rêu phủ tên A3?
Thương Non Nước hang sâu cùng dốc núi
Mây bay về ai nhắn kể chuyện ngày qua.
(Lan và Thắm còn than chăng chân mỏi
Hường, Trúc ơi vẫn ngọt nước dừa tươi
Trên đỉnh núi nhấm hoài vắt xôi dẻo
Thoáng mắt nhìn Thân có thấy bồi hồi).
Và Phi Hải cát vàng chao sóng vỗ
Ta ngày xưa nồng ấm đẹp hồn mơ
Chưa yêu thương sao lòng hoài rộn rã
Ơi Thuận Thân! Ơi ngày tháng xa đưa!
Trường học cũ giờ tan thành cát trắng
Thầy cô xưa mù biệt với ngàn khơi
Thời “tản cư” chập chờn vương hư ảnh
Khói sương mờ hay kỷ niệm lên hơi.
Thoáng kỷ niệm về bơi trong đáy mắt
Ta trầm ngâm hoài tưởng cả trời xưa
Nghe vang vọng dư âm bao tình mất
Thoảng bay cao diệu vợi những giai thừa.
* Mùa hè đỏ lửa 1972, theo chân người tản cư Quảng Trị, trường Nguyễn Hoàng dời vào trại 5 Non Nước, Hòa Long, Hòa Vang, Đà Nẵng (gần Ngũ Hành Sơn - tức núi Non Nước). Cơ sở vật chất của trường thiếu thốn trăm bề, học sinh phải xách ghế đi học.
CHỚM NỤ TÌNH ĐẦU
Em có biết rằng anh đã yêu
Nhìn em anh đã vấn vương nhiều
Tơ lòng sao cứ ngân vang mãi
Thổn thức reo lên tiếng hắt hiu.
Cũng muốn cùng em tỏ nỗi niềm
Trao bao tơ tưởng trút tình điên
Nhưng lòng e ấp ươm tình mãi
Đành dấu trong tim một bóng hình.
Nếu được ngày kia em biết cho
Mối tình câm nín - Mối tình thơ
Xin đừng cô phụ tình anh nhé!
Đừng để hồn anh phải dại khờ.
Thôi thế chúng mình sắp cách xa
Em ơi mắt ướt thấm lệ nhòa
Bao nhiêu thương tưởng bao sầu nhớ
Cùng bóng hè sang ám ảnh ta.
Hè đến rồi đây em biết không?
Vắng tiếng ve ran, vắng phượng hồng
Về ta, em nghĩ gì chăng nhỉ!
Hay chỉ thờ ơ xem như không?
(Hè 1973)
LỜI BẠT
LA THỤY - HỒN THƠ PHIÊU DU NƠI PHỐ THỊ
Mùa hè đỏ lửa 1972, cậu học sinh Đoàn Minh Phú theo chân người tản cư Quảng Trị, cùng trường Nguyễn Hoàng dời vào Trại 5 Non Nước - Đà Nẵng để rồi sau gần 40 năm (khi đã là thầy giáo sắp về hưu ở La Gi - Bình Thuận) đắm hồn hồi tưởng:
Thoáng kỷ niệm về bơi trong đáy mắt
Ta trầm ngâm hoài tưởng cả trời xưa.
Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc đại bất hạnh luôn ở nơi bão táp của thiên nhiên và khói lửa của chiến tranh - những hình phạt của Thượng đế với con người lầm lỗi (tàn phá môi trường, đánh giết lẫn nhau) nên trong quá khứ La Thụy từng trải qua cảnh ngộ:
Trường học cũ giờ tan thành cát trắng
Thầy cô xưa mù biệt với ngàn khơi.
Kinh thánh chương Matthew 6, có đoạn viết lời răn của Chúa Jesus: “Đừng tích lũy của
cải trên thế gian này cho bản thân người, nơi mối mọt sẽ hủy hoại chúng và trộm cướp có thể
đột nhập vào và lấy chúng đi vì của cải của con người ở đâu thì lòng ngươi sẽ ở đó”.
Nhà giáo, nhà thơ La Thụy là con chiên ngoan đạo “kính Chúa yêu nước” như mọi công dân khác nhưng khác người là có tâm hồn thi nhân trong sáng nên nhạy cảm với thời cơ chế thị trường đầy tha hóa biến động này:
Ngày tháng lặng buồn tênh vòng cơm áo
Ta chồn chân mỏi gối với đời mòn
Thu mình lại ẩn thân vào ốc đảo
Chút khẽ khàng liệm kín khối tình son.
Cái “khối tình son” ấy, đó là: “Em hồn hậu trong ta thành vang bóng / Mắt môi xưa đọng ngấn ngát hương lòng”, đó là:
Em thoáng hiện cho thơ đời ngân vọng”
…
Bay cùng cánh mộng bâng khuâng
Tình thơ ý nhạc như lần tuôn ra…
Còn đây là cuộc sống thường nhật:
Một đời yêu phấn bảng
Thân thương tiếng giảng bài
Rồi cũng sẽ đến một ngày “Giã từ giáo nghiệp hôm nay / Giao thoa: khoảng lặng... nhẹ bay cung trầm / Thì ừ! Chào biệt bạn bè / Chia
tay trường lớp, lắng nghe tiếng lòng / Chúc người ở lại tâm đồng / “Trồng người” góp sức, thành công bội phần”.
Thơ là tiếng lòng, tiếng con tim, tiếng sự sống… mỗi thi nhân bằng ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ của riêng mình cấu tứ nên bài thơ với những tình - cảnh - sự để thỏa mãn nhu cầu nội tâm (giãi bày) đồng thời cũng là “thông điệp” gửi đến bạn đọc:
Thi hứng chừ đây có cạn nguồn?
Con tằm nhớ lá rối tơ vương
Phải chăng kén khép chôn hoài niệm
Lãng đãng hồn hoa đọng khói sương.
La Thụy ở thị xã La Gi cạnh bờ biển sóng, bên sông Dinh đổ xuống từ Di Linh - sớm sớm tinh mơ đến giáo đường tham dự thánh lễ, đến giờ lên “bục giảng” đứng lớp làm nhiệm vụ “trồng người”, thời gian và không gian bó hẹp… có lẽ vì thế mà “đời” đã làm “thức dậy” hồn thơ ở anh:
Ta,
Gã mù huơ gậy đồi hoang
Sờ soạng từng dấu chân
Soãi bước
Thụy du nhẹ nâng gót
……………………….
Một phút tâm đầu mơ dáng bướm
Ngàn năm ý hợp mộng hình tinh.
La Thụy mộng du, phiêu bồng có khác nào thi sĩ Vũ Hoàng Chương xưa với những câu thơ khá đẹp:
- Gõ bồn Trang Tử mơ hồ điệp
Vung gậy Xích Tùng mộng tố nga.
- Sầu dâng phủ giấc muộn phiền
Hồn hoang nghẽn lối tìm quên trăng vàng
Sáng ra mình mãi lang thang
U uất mấy nhịp cơ hàn ai hay.
Chừ đây tay vẫn trắng tay
Phú sao tưởng mộng ăn mày vu vơ
Ngửa tay nếm chút dại khờ
Dìu nhau bạn hữu vài giờ lất lây.
Thanh bần hằn vết chua cay
Ô hay trôi mất chân mây mộng đời.
Để rồi : “Chừ cho trái đất xoay vần / Trong ta tuôn chảy vô ngần bơ vơ” có khác chi trung niên thi sĩ Bùi Giáng?
Thơ La Thụy đậm chất Lão Trang (thoát tục) như một thi nhân, kẻ sĩ “tu tại gia”:
Hương Tây phương giũ phù hư
Thoát trùng bể khổ Thuyền Từ phiêu diêu
Hòa mình cùng chốn tịch liêu
Chuông mai Suối Đó, kinh chiều Chùa Đây
Về nghệ thuật, thơ La Thụy rất có hồn, với ngôn ngữ tinh luyện, điêu xảo, hình tượng thơ đẹp sống động, với tình thơ man mác hoài thương. Cái “bâng khâng” của thơ bình thanh La Thụy - kiểu thơ Bích Khê, đọc lên như một khúc nhạc “ngàn mây tràng giang buồn muôn đời …”:
- Hồn chiều in lên mi
Thuyền tình xuôi mây đi
Ồ nàng hay sao trời
Thiên hà hay trùng khơi?
- Sầu thu mênh mang thương rừng phai
Tương tư bâng khuâng nhiều canh dài.
- Vàng trăng giăng tơ khơi tình xưa
Tình ơi! Tình ơi! Đừng đong đưa.
Chao ôi, làm thơ trước tiên là viết cho mình, rồi là để giãi bày nỗi lòng với bạn bè, người thân… Ở nhà giáo, nhà thơ La Thụy đó là “thơ đời ngân vọng” chân tình và mộng mơ huyền ảo, thật đúng là nghệ thuật làm nên bài thơ, còn trái tim mới là thi sĩ vậy.
Góc thành Nam Hà Nội 20/11/2013
Nguyễn Khôi
(Nhà văn Hà Nội)
MỤC LỤC
TOC \o "1-1" \u LỜI TỰA.................................................................. PAGEREF _Toc376855116 \h 5
TRÊN BỤC GIẢNG MÙA XUÂN......................... PAGEREF _Toc376855117 \h 15
TÂN NIÊN KHAI BÚT.......................................... PAGEREF _Toc376855118 \h 16
CHÀO XUÂN......................................................... PAGEREF _Toc376855119 \h 17
CUỐI NĂM ÂM LỊCH........................................... PAGEREF _Toc376855120 \h 18
CÒN GIEO HẠT MỘNG....................................... PAGEREF _Toc376855121 \h 21
TÌNH XUÂN.......................................................... PAGEREF _Toc376855122 \h 22
MẸ.......................................................................... PAGEREF _Toc376855123 \h 25
THÙY HIÊN........................................................... PAGEREF _Toc376855124 \h 28
TÌNH XƯA............................................................. PAGEREF _Toc376855125 \h 29
HỒ CẦM................................................................ PAGEREF _Toc376855126 \h 30
THƠ TẶNG NGƯỜI NGHỈ HƯU.......................... PAGEREF _Toc376855127 \h 33
TỪ THỨC VỀ TRẦN............................................ PAGEREF _Toc376855128 \h 34
LIÊU TRAI HUYỄN MỘNG................................. PAGEREF _Toc376855129 \h 35
TRANH TỐ NỮ..................................................... PAGEREF _Toc376855130 \h 36
LIÊU TRAI CẢM TÁC.......................................... PAGEREF _Toc376855131 \h 37
THỤY DU.............................................................. PAGEREF _Toc376855132 \h 38
THƠ KHÔNG VỀ................................................... PAGEREF _Toc376855133 \h 41
TÀN NIÊN CẢM TÁC........................................... PAGEREF _Toc376855134 \h 42
NHÀN CA.............................................................. PAGEREF _Toc376855135 \h 43
HOÀI CẢM............................................................ PAGEREF _Toc376855136 \h 44
RONG RUỔI TRỜI SAY........................................ PAGEREF _Toc376855137 \h 45
CHUÔNG CHIỀU.................................................. PAGEREF _Toc376855138 \h 46
VỚI LƯƠNG MINH VŨ........................................ PAGEREF _Toc376855139 \h 47
CẢM ĐỀ SƠN NỮ................................................. PAGEREF _Toc376855140 \h 49
LỜI VỌNG CHÂN MÂY....................................... PAGEREF _Toc376855141 \h 50
RIÊNG NỤ HOA LÒNG........................................ PAGEREF _Toc376855142 \h 51
CHIỀU ĐÔNG TRẢY LÁ...................................... PAGEREF _Toc376855143 \h 52
BIỂN MAI HỒNG.................................................. PAGEREF _Toc376855144 \h 53
VỌNG CỐ HƯƠNG............................................... PAGEREF _Toc376855145 \h 54
NGÀY CÁ THÁNG TƯ......................................... PAGEREF _Toc376855146 \h 57
TIẾNG LÒNG........................................................ PAGEREF _Toc376855147 \h 59
TÌNH THƠ.............................................................. PAGEREF _Toc376855148 \h 60
KHÔNG DƯNG..................................................... PAGEREF _Toc376855149 \h 61
NGHIÊNG.............................................................. PAGEREF _Toc376855150 \h 62
NGUYỄN TRÃI..................................................... PAGEREF _Toc376855151 \h 63
TRẦN NHÂN TÔNG............................................. PAGEREF _Toc376855152 \h 64
THẢ........................................................................ PAGEREF _Toc376855153 \h 65
BÂNG KHUÂNG................................................... PAGEREF _Toc376855154 \h 66
HỎI?....................................................................... PAGEREF _Toc376855155 \h 67
KHÔNG ĐỀ............................................................ PAGEREF _Toc376855156 \h 68
CHẠNH LÒNG...................................................... PAGEREF _Toc376855157 \h 69
SƠ THU TỰ THÁN............................................... PAGEREF _Toc376855158 \h 70
DÁNG XƯA........................................................... PAGEREF _Toc376855159 \h 71
NGÔI TRƯỜNG CŨ ƠI 10A3............................... PAGEREF _Toc376855160 \h 72
CHỚM NỤ TÌNH ĐẦU.......................................... PAGEREF _Toc376855161 \h 75
LỜI BẠT................................................................. PAGEREF _Toc376855164 \h 79
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
18 Nguyễn Trường Tộ - Ba Đình - Hà Nội
ĐT: 04 3716 1518; 04 3716 190;* Fax: 04 3829 4781
Email: tonghopvanhoc@vnn.vn
* Chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh
290/20, Nam Kỳ Khởi Nghĩa TP. Hồ Chí Minh
ĐT: 08 3848 3481; 08 3846 9858; Fax: 08 3848 3481
Email: xuantrieuwriter@gmail.com
Website: www.trieuxuan.info
THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG
Thơ của La Thụy
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Nguyễn Anh Vũ
Biên tập: Ban biên tập
Trình bày: Hiệp Thành
Bìa: Lương Minh Vũ
Phụ bản vẽ: Lương Minh Vũ
Phụ bản nhạc:
Thảo Nguyên, Thanh Chương, Bùi Tuấn Anh
Sửa bản in:
Đình Nghĩa
__________________
In 1000 cuốn, khổ 13 X 19 cm, tại Nhà in Khoa học & Công nghệ
Giấy chấp nhận KHĐKXB số 89 - 2014/CXB/36 - 02/VH
QĐXB số 47/QĐ-VH ngày 10/01/2014
In xong nộp lưu chiểu quý I năm 2014